Nhận diện và chuyển hóa thân - tâm
Là
con người chánh niệm, an lạc, và tỉnh thức, với chánh kiến và chánh tư duy, xuyên
qua việc tu, học, hiểu, áp dụng, và thực Phật
pháp vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta có
thể nhận diện và chuyển hóa thân - tâm. Qua quá trình nhận diện và chuyển hóa thân - tâm, chúng ta có cơ hội nhìn
sâu và nhìn rõ mình hơn bằng cách quán chiếu chúng một cách chi tiết.
Recognizing and
transforming body - mind
As people of mindfulness, peacefulness, and awakening, with right view and right
thought, through cultivation, learning, understanding, application, and
practice of the Buddhadharma in everyday
life, we can recognize and transform our bodies-minds. Via the process of
recognizing and transforming our bodies-minds, we have the opportunity to look
more deeply and clearly at ourselves by contemplating them in detail.
Nhận diện cái
gì và chuyển hóa cái gì? - thân và tâm; ai nhận diện và ai chuyển hóa? Chúng ta, tức hành giả, tu, học, thực hành, và ứng dụng
Phật pháp trong từng ý nghĩ, cử chỉ, lời nói, và việc làm chánh niệm và tỉnh
giác, vững chãi và thảnh thơi vào trong đời sống hằng ngày.
What is recognized
and what is transformed? - the Body and
the mind; who recognizes and who
transforms? We, namely practitioners, cultivate, learn, practice, and apply the
Buddhadharma in every thought,
gesture, speech, and action of right mindfulness and awareness, solidity and
leisureliness into our daily lives.
Thân và tâm là chủ đề chính của bài thảo luận hoặc bài pháp thoại này. Theo
giáo lý duyên khởi (S. Pratītyasamutpāda/ P. Paṭiccasamuppāda) của đạo Phật, con người bao gồm hai phần then chốt, đó là, thân và tâm. Cả hai là một, không bao giờ
riêng biệt, chúng tương tức với nhau như hình với bóng. Nếu nhân và duyên không
có mặt, thì chúng sẽ không bao giờ hình thành và sinh khởi. Ngược lại, khi đủ
nhân và duyên có mặt, thì chúng sẽ có thể hình thành và sinh khởi.
The body and the
mind are the main topic of this discussion or Dharma writing. According to the
tenets of dependent origination (S. Pratītyasamutpāda/ P. Paṭiccasamuppāda) of Buddhism, a person is comprised of two key
parts, that is to say, the body and mind. Both are one, have never been seperate,
they interrelate like image and its shadow. If causes
and conditions are not
present, they will
have never formed and co-arisen.
Conversely, when enough causes and conditions are present, they will be able to form and
co-arise.
Thân và tâm là
những yếu tố quan trọng trong việc hình thành
con người hữu ngã (我, S. Ātman,
P. Attā), năm uẩn, hay con người vô ngã (無我, S. Anātman, P. Anattā); Ngã là một con người do năm uẩn hình thành.
Cũng vậy, con người vô ngã có nghĩa là con người duyên sinh, tương thuộc, và tương
tức đầy đủ với sắc, thọ, tưởng, hành, và thức.
The body and mind are important factors in
forming a person with ego (S. Ātman
, P. Attā 我), five aggregates, dependent origination, or one with egolessness (無我, S. Anātman, P. Anattā); Ego or self is a person
formed by the five aggregates. Likewise, a person with egolessness means a person of
co-arising, interdependence, interrelating sufficiently with form, feeling,
perception, mental formation, and consciousness.
Vô ngã có nghĩa là không có một uẩn nào, một
nhân, một duyên nào, hay một yếu tố vật lý và tâm lý nào trong ta tồn tại độc lập;
vô ngã có nghĩa là uẩn này duyên với uẩn khác và nhiều uẩn khác nữa, hoặc vô
ngã có nghĩa là con người này hoàn toàn tương tức với những cái khác và không
phải là một chúng sinh riêng biệt, v.v...
Egolessness or no self means there is not an
aggregate, a cause, a condition, or a physical and psychological factor in
himself or herself existing independently; no self means this aggregate relates
with that aggregate and with further other aggregates, or no self means this person is totally inter-related with others and not a separate
being, v.v...
Khi học và hiểu được Phật pháp vững chãi, chúng ta biết rằng
cả con người hữu ngã và vô ngã đều sinh, diệt, vô thường, biến hoại, v.v... trong từng sát na. Khi nhìn các khía cạnh
không hành trì Phật pháp với thân tâm chấp thủ, tà niệm, tà kiến, và tà tư duy,
thì cả hai hạng người này đều nhận chịu những kết quả bất thiện, như sầu, bi,
khổ, ưu, não, v.v...
When learning
and understanding the Buddhadharma
steadily, we know that both a person with ego and one with egolessness contain birth,
death, impermanence, decay, etc., in every moment. When looking at aspects of
not practicing the Buddhadharma with
the body and mind of clinging, wrong mindfulness, wrong confidence, and wrong
thought, both kinds of these people receive and bear bad results, such as
sorrow, lament, suffering, melancholy, affliction, etc.
Ngược lại, khi nhìn
các khía cạnh hành trì và ứng dụng Phật pháp thích hợp với thân tâm buông xả,
chánh niệm, chánh kiến, và chánh tư duy, cả những con người hữu ngã và vô ngã đều
có thể gặt hái được những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây
trong cuộc sống hiện tại. Như vậy, hai là một, là tất cả, và ngược lại.
Conversely, when looking at aspects of
practicing and applying the Buddhadharma in
accordance with the body and mind of letting go, of right mindfulness, right view, and right
thought, both persons with ego and those with egolessness can reap the flowers
and fruits of peacefulness and happiness right here and right now in the
present life. Thus, two are one, are all, and vice versa.
Theo đạo Phật, cả hai hạng người này
không bao giờ chấp nhận một cái nhân duy nhất, một cái duyên duy nhất, một chủ
thể tuyệt đối, hay một linh hồn bất biến theo lối suy luận và diễn đạt người
nào có tội thì đọa xuống địa ngục mãi mãi, hoặc người nào có phúc thì sinh lên
cõi trời mãi mãi.
According to Buddhism, both kinds of these
people have never accepted an only cause, an only condition, an absolute
subject, a permanent soul according to the way of inferring and expressing that
someone with guilt falls down to a hell forever, or someone with virtue is born
up to heaven forever.
Với chánh tín, chánh kiến, và chánh tư duy, đạo Phật chỉ
chấp nhận quy luật nhân quả, nghiệp báo, đặc biệt là con người
chuyển nghiệp, chuyển ngữ, chuyển tâm, và chuyển thức. Tất cả
các nhân, duyên, và các yếu tố khác nhau trong con người năm uẩn không bao giờ
tồn tại độc lập và riêng biệt.
With right
confidence, right view, and right thought, Buddhism only accepts the laws of
causality, retribution, especially people of karma transformation, speech
transformation, mind transformation, and consciousness transformation. All different causes, conditions, and factors in people of five aggregates
have never existed independently and separately.
Thật vậy, trong giáo lý tương thuộc, duyên
sinh, hình thành, và phát triển, ở ngữ cảnh này, chúng ta biết đạo
Phật không những chấp nhận con người vô ngã, mà còn chấp nhận con người hữu
ngã, hay con người năm uẩn.
Indeed, in the
tenets of interdependence, co-arising, formation, and development, in this
context, we know Buddhism not only accepts persons with egolessness, but also those with
ego, or those with five aggregates.
Nhờ tinh cha, noãn sào, tử cung của mẹ, hương ấm (Gandhabha),[1] hay thức tái sinh (Patisandhi),[2] nhờ ăn, uống, ngủ, nghỉ,
tu, học, làm việc, không khí, ánh sáng, v.v..., nhờ các mối tương quan và tương duyên với nhau của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng,
hành, và thức), con
người hữu ngã hay năm uẩn được hình thành, và chúng ta có thể thấy vị ấy bằng mắt, bằng
tâm, và bằng xúc chạm.
Thanks to father's sperm, mother's ova,
her womb, (Gandhabha),[3] or reincarnation consciousness (Patisandhi),[4] thanks to eating, drinking,
sleeping, resting, cultivating, learning, working, fresh air, light, etc.,
thanks to interrelationships and interdependencies of the five aggregates
(form, feeling, perception, mental formation, and consciousness), a person
with ego or the five aggregates are formed, and we can see him or her with our eyes, by our
minds, and by touch.
Khi nhìn về khía cạnh quán chiếu và tương tức, con người này không những bao gồm các hạt giống tiêu cực như tham,
sân, si, chấp thủ, tà
kiến, v.v..., mà còn bao gồm các hạt giống tích cực như rộng lượng,
thương yêu, hiểu biết, buông xả, chánh kiến, v.v...
When looking at
aspects of contemplation and interrelation, this person not only comprises the
seeds of negativity, such as greed, anger, delusion, clinging, wrong view,
etc., but also those of positivity, such as generosity, love, understanding,
letting go, right view, etc.
Nói cách
khác, trong bùn có sen, trong sen có bùn; trong tối có sáng, trong sáng có tối, hoặc trong đen có
trắng, trong trắng có đen. Đứng về mặt tu tập và hành trì, ta thấy trong
bùn có sen, trong phiền não có giác ngộ (Bodhi),
trong tối có sáng, trong đen có trắng, v.v... Ngược lại, đứng về mặt không tu tập
hoặc tu tập lai rai, ta thấy trong sen có bùn, trong hạnh phúc có khổ đau,
trong sáng có tối, trong trắng có đen, v.v...
In other words,
in mud there is the lotus, in the lotus there is mud; in dark there is light,
in light there is dark, or in black there is white, in white there is black.
Considering aspects of cultivation and practice, we see that in the mud
there is the lotus, in defilement there is enlightenment (Bodhi), in the dark there is the light,
in the black there is the white, etc. Conversely, considering angles of
non-cultivation, or irregular cultivation, we see that in the lotus
there is the mud, in
happiness there is suffering, in the light there is the dark, in the white
there is the black, etc.
Trong bài viết
này, bùn, tối, và đen đều dụ cho
tham, sân, si, chấp thủ, tà kiến, vô minh, phiền não, v.v...; sen, sáng, và trắng đều dụ cho sự rộng lượng, thương yêu, hiểu biết, buông xả, chánh kiến, trí tuệ, giác ngộ, v.v... Như vậy, cả hạt giống tiêu cực và tích cực, bùn và sen, tối và sáng, đen và trắng, phiền não và Bồ-đề
(Bodhi) đều
có mặt trong ta hay
trong con người năm uẩn.
In this
writing, the mud, dark, and black symbolize greed, anger, delusion, clinging, ignorance,
defilement, etc.; the lotus, light, and white represent generosity, love, understanding, letting go, right
view, wisdom, enlightenment, etc. Thus, both the seeds of negativity and
positivity, the mud and lotus, the dark and light, the black and white,
defilement and enlightenment are present in oneself or in the person of five
aggregates.
Bằng sự học, hiểu, và thực hành Phật pháp
chuyên cần, tu là quá trình nhận diện bùn và chuyển hóa
bùn thành sen; nhận diện tối và chuyển hóa tối thành sáng;
nhận diện đen và chuyển hóa đen thành trắng; nhận diện
tham, sân, si, chấp thủ, tà kiến, vô minh, phiền não, v.v..., và chuyển hóa
chúng thành sự rộng lượng, thương yêu, hiểu biết, buông xả, chánh kiến, trí tuệ, giác ngộ, v.v... Tu là quá trình chúng ta nhận diện phàm phu và chuyển hóa
phàm phu thành thánh quả.
By learning,
understanding, and practicing the Buddhadharma
diligently, cultivation is the
process of recognizing the mud and transforming it into the
lotus; regconizing the dark and transforming it into the light; regconizing the
black and transforming it into the white; recognizing greed, anger, delusion, clinging, wrong
view, ignorance, defilement, etc., and transforming them into generosity, love,
understanding, letting go, right view, wisdom, enlightenment, etc. Cultivation
is the process of recognizing a secular person and transforming him
or her into a holy person.
Thật vậy, lìa
bùn, chúng ta không bao giờ tìm thấy sen;
lìa tối, chúng ta không bao giờ tìm thấy
sáng;
lìa đen, chúng ta không bao giờ tìm thấy
trắng;
lìa phiền não và khổ đau, chúng ta không
bao giờ tìm thấy giác ngộ, an vui,
và hạnh phúc;
lìa con người
phàm phu, chúng ta không bao giờ tìm thấy con người
thánh quả;
lìa sự kham nhẫn, chánh kiến, và chánh
tư duy, thì chúng ta không bao
giờ tìm thấy sự thành
công tốt đẹp
trong việc tu, học, và hướng đi tốt đẹp
trong cuộc đời.
Indeed, leaving
the mud, we have never looked for the lotus;
leaving the dark, we have never looked
for the light;
leaving the black, we have never looked
for the white;
leaving
defilement and suffering, we have never looked for enlightenment, peaceful joy, and
happiness;
leaving the secular person, we have never
looked for the holy person;
leaving patience, right view, and right
thought, we have never looked
for good success in cultivation, learning,
and the direction of going
beautifully in life.
Là người quán chiếu giỏi, chúng
ta phải tìm thấy được sen trong
bùn, sáng trong tối, trắng
trong đen, giác ngộ và hạnh phúc trong phiền não và
khổ đau, và con người
thánh quả trong con người hữu ngã, năm uẩn, duyên sinh, hay vô ngã.
As people
contemplating well, we must find out the lotus in the mud, the light in the dark,
the white in the black, enlightenment and happiness in defilement and
suffering, and the holy person in the person with ego, five
aggregates, dependent co-arising, or no self.
Quá trình tu
tập là quá trình thanh lọc, hướng thượng, hướng thiện, và chuyển hóa thân - tâm (Rūpa - Nāma). Xét về khía cạnh tương tức và duyên sinh, thân (sắc - Rūpa) gồm có các yếu tố khác như đất, nước, lửa, gió; tâm (danh - Nāma) gồm có thọ, tưởng, hành, và thức.[5]
The process of cultivation is
that of purifying, leading to uplifting, to good, and that of transforming the body-mind (Rūpa - Nāma).
Considering aspects of interdependence and co-arising, the body (form - Rūpa)
comprises the different aspects, such as earth, water, fire, wind; the mind (name - Nāma) consists of feeling, perception, mental formation, and consciousness.[6]
Yếu tố
đất (pruṭhavī-dhātu) – chất cứng gồm có tóc, lông, móng, răng, da,
thịt, gân, xương, nội tạng, ruột…
Yếu tố nước (āpa-dhātu) – chất lỏng gồm
có mật, đờm, máu, mủ, mồi hôi, chất béo, nước mắt, nước mũi, nhầy, nước tiểu…
Yếu tố lửa (teja-dhātu) – chất nóng gồm
có cơ cấu thân thể tạo ra hơi ấm vật lý, lão hóa, tiêu hóa…
Yếu tố gió (vāyu-dhātu) – sự chuyển động gồm
có không khí liên quan với hệ thống phổi, hơi thở, gió trong bụng và đường
ruột…
Earth elements (pruṭhavī-dhātu) –
solidity include head hair,
body hair, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bone, organs, intestines, etc.
Water elements (āpa-dhātu) –
liquid include bile,
phlegm, blood, pus, sweat, fat, tears, nasal mucus, urine, etc.
Fire elements (teja-dhātu) –
warmth include those
bodily mechanisms that produce physical warmth, aging, digestion, etc.
Wind elements (vāyu-dhātu) –
movement include air
associated with pulmonary system, breathing, winds in the belly and bowels,
etc.
Trên đây, để người
đọc và người học có thể hiểu và nắm bắt ý nghĩa của bài viết này dễ hơn, nên thân tâm được phân
tích riêng biệt. Tuy nhiên, trong thực tế, cả thân và tâm là một, và là tất cả,
chúng không bao giờ tách rời độc lập.
Above, so that
readers and learners can understand and grasp the meanings of this writing more
easily, the body and mind are analyzed separately. However, in reality, both
the body and mind are one, and are all, they have never been separate
independently.
Ở điểm này, chúng ta nên biết rõ các yếu đất, nước, gió,
và lửa trong con người vật lý của ta có liên quan với các yếu tố đất, nước,
gió, lửa bên ngoài ta rất mật thiết. Khi có đầy đủ nhân, duyên, hay các yếu tố
đó, thì thân và tâm hay con người năm uẩn có thể hình thành, phát triển, và trải
qua bốn chu kỳ sinh, già, bệnh, và chết. Ngược lại, nếu một nhân, một duyên,
hay một trong những yếu tố đó vắng mặt, thì chúng sẽ không bao giờ hình thành
và có mặt.
In this point, we
should clearly know elements of earth, water, wind, and fire inside our
physical bodies have relationships with those of earth, water, wind, and fire
outside us very closely. When having sufficiency of causes, conditions, or
those elements, the body and mind, or the person of five aggregates can form,
develop, and spend four cycles of birth, aging, sickness, death. Conversely, if
a cause, a condition, or one of those elements are absent, they will have never
been formed and been present.
Là hành giả sống
chánh niệm và tỉnh thức, chúng ta hiểu rõ và ý thức sâu sắc rằng thân và tâm của
chúng ta đang vô thường, sống, và chết trong từng hơi thở và trong từng sát na.
Với tuệ giác Phật pháp, chúng ta có thể quán chiếu con người duyên sinh như
sau:
As practitioners living midfully and
awakeningly, we can look deeply at and clearly see our bodies and minds being
impermanence, birth, and death in every breath and in every moment. With
insight of the Buddhadharma, we can
contemplate the person of dependent origination as follows:
“Tôi phải già, tôi không thể nào tránh
khỏi cái già;
Tôi phải bệnh, tôi không
thể nào tránh thoát khỏi cái bệnh;
Tôi phải chết, tôi không
thể nào tránh thoát khỏi cái chết;
"I am of the nature to grow old, I cannot escape
aging;
I am of the nature to have sick health, I cannot escape sickness;
I am of the nature to die, I cannot escape death;
Tất cả những gì do thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp của tôi tạo tác và gây ra,
tôi không thể nào xa lìa và buông bỏ chúng, dù đó là nghiệp thiện, hay nghiệp bất thiện; Ý thức rằng nghiệp thiện tôi tiếp tục duy trì và phát triển; nghiệp
bất thiện tôi cố gắng nhận diện và chuyển hóa;
All things are created and caused by my bodily action,
verbal action, and mental action, I cannot renounce and let go of them, whether
it is good karma or non good karma; Aware of
this, good karma I continue upholding and developing; non good karma I
try to recognize and transform;
Tất cả những người thân,
người thương, và những gì tôi trân quý hôm nay, một mai này tôi chắc chắn sẽ phải xa lìa và buông bỏ, tôi
không thể nào tránh khỏi sự xa lìa và buông bỏ ấy.”[7]
All relatives, loved ones, and things I cherish today,
one day I will certainly have to renounce and let go of them, I cannot avoid
renouncing and letting go of them."[8]
Quán chiếu được
như vậy, chúng ta có thể chuyển hóa các hạt giống bất thiện trong con người
duyên sinh và vô ngã thành các hạt giống thiện. Với sự tu, học, và thực
hành Phật pháp ngon lành, nương vào con người ngũ uẩn của chính mình, chúng ta
có thể nhận diện những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong
cuộc sống hiện tại.
Contemplating
like that, we can transform the non-good seeds of the person of dependent
origination and no self into the good seeds. With cultivation, learning, and
practicing the Buddhadharma well,
depending on people of five aggregates of ourselves, we can recognize the flowers
and fruits of peaceful joy and happiness right here and right now in the
present life.
Là người chánh
niệm và tỉnh thức, chúng ta hiểu rõ và ý thức sâu sắc rằng thân thể vật lý của ta
sống trên thế gian này chỉ một thời gian nào đó, nó phải trải qua các chu kỳ
sinh, già, bệnh, và chết trong từng hơi thở, từng giờ, từng ngày, từng tuần, từng
tháng, và từng năm.
As people of mindfulness and awakening, we
clearly understand and are deeply aware that our physical bodies live in this
world only a certain time, they must experience the cycles of birth, aging,
sickness, death in every breath, every hour, every day, every week, every
month, and every year.
Đến một lúc nào đó thân thể này cạn kiệt, chúng
ta không thể bám víu, chấp thủ, và cho rằng: "Thân này là tôi, là của tôi, và tôi là thân này." Ngược lại, với tuệ giác của việc ứng dụng
và hành trì Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta nên quán chiếu
thân thể vật lý này như sau:
Coming to a
certain time, these bodies become exhausted, we cannot adhere, cling to, and
think that: "This body is I, is
mine, and I am this body." Conversely, with insight of application and
practice the Buddhadharma in everyday
life, we should contemplate our physical bodies as follows:
"Thân này không phải là tôi,
Tôi không kẹt vào nơi thân ấy,
Tôi là sự sống thênh thang,
Chưa bao giờ từng sinh,
Và cũng chưa bao giờ từng diệt.
Nhìn kia! Biển rộng trời cao,
Muôn vàn tinh tú lao xao.
"This body is not I,
I do not cling to it,
I am immense life,
I have never been born,
And have also never died.
Look! Sea is wide and sky is high,
Densely innumerable stars.
Tất cả biểu hiện cùng tôi
từ nguồn linh tâm thức,
từ muôn đời tôi vẫn tự do.
Tử sinh là cửa ngõ ra vào,
tử sinh là trò chơi cút bắt.
Hãy cười cùng tôi,
Hãy thở cùng tôi,
Hãy niệm Phật cùng tôi,
All are together manifested in me
from the spiritual source of consciousness mind,
from all lives I am free.
Birth and death are in and out gateway,
They are the hide-and-seek games.
Smile together with me,
Breathe together with me,
Recite the Buddhas' names together with me,
Practice meditation together with me."[10]
Hiểu và thực
hành Phật pháp được như vậy, khi người thân hoặc người
thương của mình lìa đời, thì mình nên giữ thái độ bình thản, và hạn chế sự buồn
rầu và than khóc của mình. Vì khi mình than khóc, hương linh rất bịn rịn tiếng
than khóc của mình, lẩn quẩn đâu đây, và họ khó vãng sinh về cảnh giới an
lành.
Understanding
and practicing like this, when our relatives or loved
ones die, we should be able to keep our relaxed attitude,
limit our grief and lament. Because when we lament, the deceased cling to our
lamentations, follow somewhere, and it is difficult for them to be reborn
into the tranquil
and gentle realm.
Là người trí, trong
khoảng thời gian đó, mình và các thành viên trong gia đình của mình nên áp dụng
thiền tập và niệm Phật để góp phần cầu nguyện, hộ niệm cho người sống được nhẹ
nhàng, và người mất từ bỏ xác thân được thanh thản.
As wise people, during that time, we
and the members in our family should apply meditation practice and
recitation of the Buddhas' names to contribute to saying spiritual prayers,
protecting, and remaining
in peaceful mind, calming those who still live, and making it possible for the
deceased to serenely separate from their physical body.
Tiếp theo, mình
có thể nhận diện và chuyển hóa thân -
tâm qua khía cạnh sám hối hoặc làm mới.
Trước hết, chúng ta tìm hiểu những ý nghĩa của các từ "Sám hối hoặc làm mới."
Next, we can recognize
and transform our bodies-minds via aspects of showing repentance or renewing. First of all, we learn about meanings of
words "Showing
repentance or renewing."
"Sám Hối"
(Showing repentance) là tiếng Hán Việt viết theo chữ Hán là 懺 悔 có chung bộ tâm đứng "忄." Cả bộ tâm đứng "忄" và chữ tâm (心) trong Phật giáo đều có nhiều nghĩa giống nhau.
Nghĩa đen của tâm là trái tim; nghĩa bóng của nó là tấm lòng, then chốt, cốt lõi,
cốt tủy. Tâm "心" bao gồm các hành động của cảm thọ, cảm giác, ý
thức, tư tưởng, v.v...
"Sám hối" (Showing repentance) which is Sino Vietnamese language is
written in Chinese as 懺 悔 (Showing
repentance) with the same radical word Tâm đứng "忄." Both the radical word Tâm đứng "忄"
and letter Tâm "心" in Buddhism have many similar meanings. The literal meaning of Tâm "心" is heart; its figurative meanings are heart, key, essence, quintessence.
Tâm "心" comprises actions of feelings, perception, consciousness, thought, etc.
Trong con người duyên sinh, bên cạnh cái
thân, cái tâm của ta đóng một vai trò rất quan trọng trong việc chỉ huy và sai
khiến đời sống của chúng ta qua ý nghĩ, lời nói, và việc làm tốt, xấu, đúng,
sai ... Để nhấn mạnh cái tâm, các Kinh
điển Phật giáo ghi rằng:
In people of co-arising, beside our bodies,
our minds play a very important role in conducting and commanding our lives via
thoughts, speeches, and doings of good, bad, right, wrong, etc. To emphasize mind (Tâm 心),
Buddhist Sutras state:
"Tâm dẫn đầu các pháp,
Tâm làm chủ, tâm tạo;
Nếu với tâm ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như bánh xe theo chân con bò kéo."[11]
Tâm làm chủ, tâm tạo;
Nếu với tâm ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như bánh xe theo chân con bò kéo."[11]
"Mind precedes all mental states.
Mind is their chief;
they are all mind-wrought.
If with an impure mind a person speaks or acts
"Tâm dẫn đầu các pháp,
Tâm làm chủ, tâm tạo,
Nếu với tâm thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình."[13]
Tâm làm chủ, tâm tạo,
Nếu với tâm thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình."[13]
"Mind precedes all
mental states.
Mind is their chief;
they are all mind-wrought.
If with a pure mind a person speaks or acts
"Nếu ai muốn thấy và muốn hiểu
Chư Phật có mặt trong ba đời
Người ấy phải quán chiếu pháp giới
Tất cả đều do tâm mà thôi."[15]
Chư Phật có mặt trong ba đời
Người ấy phải quán chiếu pháp giới
Tất cả đều do tâm mà thôi."[15]
"If someone wants to see and to understand
Buddhas have been present in three lives (the past, present, and future),
He or she must contemplate the Dharma realm,
"Mind is the land to sow
the seeds
All seeds are full of good and bad
Likewise, the land of the mind
Nhìn về khía cạnh tổng quát, chúng ta biết cái tâm được trích dẫn trên đây có khả năng
chứa đựng tất cả các hạt giống bất thiện và thiện, khổ đau và hạnh phúc, phiền não và giác
ngộ, tà kiến và chánh kiến, vô minh và tuệ giác, v.v...
Looking at
aspects of generality, we know the above
quoted mind has the ability to contain all
the seeds of bad and good, suffering and happiness, defilement and
enlightenment, wrong view and right view, ignorance and insight, etc.
Là hành giả tỉnh thức tu tập và ứng dụng Phật
pháp vào đời sống hằng ngày, chúng ta có thể nhận diện và chuyển hóa các hạt giống
bất thiện, khổ đau, phiền não, tà kiến, và vô minh thành các hạt giống thiện, hạnh phúc,
giác ngộ, chánh kiến, và tuệ giác. Chúng ta hiểu và thực hành được như vậy, thì
thân an là tâm an, và ngược lại. Thân vui là tâm vui, và ngược lại. Thân tâm
bình là thế giới bình, và ngược lại.
As awakening practitioners cultivating and applying
the Buddhadharma in our daily lives,
we can recognize and transform the seeds of bad, suffering, defilement, wrong
view, ignorance into the
seeds of good, happiness, enlightenment, right view, and insight. We
understand and practice like that, tranquility in bodies
is tranquility in minds, and vice versa. Joy in bodies is joy in minds, and
vice versa. Peace in bodies and minds is peace in the world, and vice versa.
Thật vậy, bên phải
của chữ Sám (懺) là chữ tiêm (韱); bên trên của chữ tiêm (韱) là chữ sơn (山) nghĩa là núi; bên dưới của chữ tiêm là chữ cửu (韭) nghĩa là hẹ. Vậy chữ tiêm (韱) có nghĩa là hẹ núi, dụ cho sự rậm
rạp, dày đặc, tối tăm, phức tạp, phiền não, phiền muộn, v.v...
Indeed, right side of the letter/
word Sám (懺) is the letter tiêm (韱); the upper side of the letter tiêm (韱) is the letter sơn (山) meaning mountain; the lower side of the letter tiêm (韱) is the letter cửu (韭) meaning shallot. Thus, the letter tiêm means (韱) mountain shallot, symbolizing bushiness, thickness, darkness,
complicatedness, defilement, sorrowfulness, etc.
Với chánh
niệm và tỉnh giác, mỗi lần ta phiền muộn là mỗi lần ta ý thức nhận diện, sửa đổi,
và chuyển hóa thân tâm. Bên phải của chữ
Hối (悔) là chữ mỗi (每) có
nghĩa là thường, luôn, mỗi, từng, v.v... Với sự tu tập thuần thục và tinh
chuyên, mỗi lần ta phạm lỗi là mỗi lần ta nỗ lực làm mới thân tâm.
With right mindfulness and
awareness, each time we are sorrowful is each time we are aware to recognize, correct, and to transform our bodies and minds.
Right side of the letter Hối (悔) is the letter mỗi
(每), meaning
often, always, each, every, etc. With mature and diligent cultivation, each
time we violate a fault is each time we make an effort to renew our bodies and minds.
Chữ Sám (懺) dịch âm
tiếng Phạn là Ka-ma (kṣamā), tiếng Tàu là Sám ma (懺 摩). Nó có nghĩa là tha thứ, khoan dung, kham nhẫn, trải
qua, xin lỗi, từ bỏ, v.v... Chữ Hối (悔) luôn đi cùng với hối hận (悔恨), hối quá (悔過), hối cải (悔改), ... Tất cả những chữ đó
đều có nghĩa là hối hận, ăn
năn, sửa lỗi, từ bỏ, chừa bỏ... Như vậy, chữ Sám 懺 và Hối 悔 ở đây có nhiều ý nghĩa và liên hệ với nhau rất gần.
Sanskrit transliteration of the letter Sám (懺) is kṣamā,
Chinese transliteration is Sám ma (懺 摩). Meanings of the letter Sám (懺) are forgiveness, tolerance, endurance, experience, apology, abandon,
etc. The letter Hối
(悔) always goes together with hối hận (悔恨),
hối quá (悔過),
hối cải (悔改), etc. All those letters have meanings of remorse, repentance, modification of faults, abandon,
quitting, etc. Thus, the letters Sám (懺) and Hối (悔) here have many meanings and relate to
each other very closely.
Ở điểm này, chữ
Sám (懺) có ý nghĩa tổng quát các lỗi lầm trước đây đã phạm,
bây giờ có duyên tu, học, và thực hành Phật pháp, mình có thể nhận diện và chuyển
hóa chúng bằng cách phân biệt và chọn lọc điều nào tốt chúng ta tiếp tục duy
trì và phát triển, và điều nào không tốt chúng ta ý thức dừng lại và sửa đổi;
chữ Hối(悔) có nghĩa cụ thể là khi các
lỗi lầm đã được nhận diện và chuyển hóa rồi, ngay trong hiện tại và trong tương
lai, chúng ta nguyện không tái phạm và làm lại các lỗi lầm xưa.
In this point, the letter Sám (懺) has general meaning of previously violated faults, now having a good opportunity to
cultivate, learn, and to practice the Buddhadharma, we can recognize and
transform them by comparing and choosing something good we continue upholding
and developing, and something not good we are aware to stop and to correct; the letter Hối (悔) has specific meaning of when faults have already
been recognized and transformed right in the present and in the future, we vow not to repeat
and not to redo old faults.
"Con
đã gây ra bao lầm lỡ,
Khi nói, khi
làm, khi tư duy,
đam mê hờn
giận và ngu si,
Nay con thảy
đều xin Sám Hối.
Một lòng
con cầu Phật chứng tri,
Bắt đầu hôm
nay, nguyện làm mới
Nguyện sống
đêm ngày trong chính niệm.
"I caused a lot of
mistakes,
When saying, when doing, when thinking,
indulgence, sulking, and dullness,
Now I open my heart to beg to
show repentance.
Wholeheartedly I invite the
Buddha to testify and to know
Beginning from today, I vow to
renew
Vow to spend night and day in
mindfulness
"Bao
nhiêu lầm lỗi cũng do tâm,
Tâm tịnh còn đâu dấu lỗi lầm,
Sám hối
xong rồi lòng nhẹ nhõm,
"How many mistakes
are created by the mind
The purified mind does not retain hidden faults in it at all,
Having already shown repentance, one's mind
gets gentle,
Ngược lại, khi có lỗi lầm, nếu mình không sám hối tinh chuyên,
thì nghiệp chắc chắn sẽ dẫn dắt, chi phối, và chế ngự chúng ta. Dù là phàm phu
hay thánh quả, chúng ta không thể nào thoát khỏi những nghiệp bất thiện mà chúng
ta đã tạo và đang tạo. Ở điểm này, những điều bất thiện và lỗi lầm do thân, khẩu,
ý của ta tạo tác có liên quan tới nghiệp nhân và nghiệp quả trong quá khứ, hiện tại, và vị lai như bóng với hình.
Conversely,
when having faults, if we do not show repentance diligently, deeds (karma) will certainly guide, control,
and dominate us. Whether we are secular or holy people, we cannot
escape from bad deeds we created and are creating. On this point, bad deeds and
faults that are created by our bodily, verbal, and mental actions have
relations to karma of cause and to that of result in the past, present,
and future like image and its shadow.
"Khi
chúng ta tạo tác các nghiệp ác,
thì các nghiệp ác chắc chắn sẽ chế
ngự và chi phối đời sống chúng ta.
Chúng ta đừng nghĩ rằng:
"Dù
bay lên không trung,
dù lặn dưới
đáy biển,
dù ẩn trong
rừng sâu,
dù trốn
trong chỗ đông người,
"When we create bad deeds,
they will certainly control and
dominate our lives.
We do not think that:
Despite flying up to the air,
despite diving down to the
bottom of the sea,
despite hiding in a deep
forest,
despite hiding ourselves in a crowded
place
Do vậy, những
điều lỗi nhỏ do thân và tâm ta tạo tác, đôi lúc mình nghĩ nó không có khả năng làm
cản trở mình. Nhưng, kỳ thực, trong nhiều ngày, nhiều tháng, và nhiều năm, chúng
dần dần sẽ tích tụ
và sẽ gây trở ngại cho đời ta. Đức Thế Tôn đã dạy:
Therefore,
small faults are created by our bodies and minds, sometimes we think they do
not have the ability to hinder our lives. But in
fact, on many
days, in many months, and many years, they will gradually accumulate and make obstructions to our lives. The World-Honored One has taught:
"Chớ khinh điều ác nhỏ,
Cho rằng "chưa đến mình,"
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần."[25]
Cho rằng "chưa đến mình,"
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác
Do chất chứa dần dần."[25]
"Think not lightly of evil,
‘It will not come to me’,
for by the falling of water drops
a water jar is filled.
The fool with evil fills himself,
he soaks up little by little."[26]
‘It will not come to me’,
for by the falling of water drops
a water jar is filled.
The fool with evil fills himself,
he soaks up little by little."[26]
"If one some evil does
then do it not again and again.
Do not wish for it anew
for evil grows to dukkha (suffering)."[28]
then do it not again and again.
Do not wish for it anew
for evil grows to dukkha (suffering)."[28]
"Mình làm các điều ác,
dù quả báo ác chưa tới,
nhưng các điều thiện mình tạo lâu nay,
"One does bad deeds,
although bad result has not come to one yet,
good deeds one has done for a long time,
Thực vậy, khi học,
hiểu, thực hành, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta rất
cẩn thận các
hành động thân và tâm của chúng ta trong từng giây phút. Đức
Phật dạy tiếp:
Indeed, when
learning, understanding, practicing, and applying the Buddhadharma in our daily lives, we are very careful of our bodily
and mental actions in every moment. The Buddha has kept on teaching:
"Chớ khinh điều thiện nhỏ
Cho rằng "Chưa đến mình,"
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần."[31]
Cho rằng "Chưa đến mình,"
Như nước nhỏ từng giọt,
Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện,
Do chất chứa dần dần."[31]
"Think not
lightly of goodness,
‘It will not come to me’,
for by the falling of water drops
a water jar is filled.
The sage with goodness fills himself,
he soaks up little by little."[32]
‘It will not come to me’,
for by the falling of water drops
a water jar is filled.
The sage with goodness fills himself,
he soaks up little by little."[32]
"Nếu mình làm điều thiện,
Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc."[33]
Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện,
Chứa thiện, được an lạc."[33]
"If one should some merit make
do it again and again.
One should wish for it anew
for merit grows to joy."[34]
do it again and again.
One should wish for it anew
for merit grows to joy."[34]
"Mình làm các điều thiện,
dù quả báo thiện chưa tới mình,
nhưng các việc ác mình tạo lâu nay,
"One does good deeds,
although good result has not come to one yet,
bad deeds one has done for a long time,
Để nhấn mạnh và
động viên mọi người làm điều phước thiện, các bậc cổ nhân có câu: "Người
trồng cây hạnh người ơi, ta trồng cây đức để đời cho con." Như vậy,
thiện và bất thiện đều do ý nghĩ, lời nói, và việc làm chúng ta tạo tác. Nó không do một đấng thần linh hay
một cái gì khác ngoài ta tạo tác.
To emphasize and encourage everyone to do virtuous and good things, the Old have a
saying: "You plant a tree of conduct with your nature, but I do a tree
of virtue to leave life for my children." Thus, good or not good
is created by our thoughts, speeches, and actions. It is not created by a god
or anything else besides
us.
Thông thường, khi làm điều gì tốt hoặc không tốt, mình thường
nghĩ rằng có một đấng siêu nhiên nào giúp đỡ hoặc trừng phạt mình. Tuy nhiên, trong thực tế, chẳng có ai có thể
giúp và phạt mình cả, chỉ có mình mới có thể soi sáng được mình
mà thôi. Với chánh kiến và chánh tư duy, chúng ta có thể giúp mình bằng cách nhận diện,
chuyển hóa, và quán chiếu các ý nghĩ, lời nói, và việc làm của mình đúng, sai,
tốt, xấu, v.v... đều do thân và tâm của chính mình tạo tác.
Normally, when doing something good or bad, we usually think
that there is a supernatural god helping or punishing us. However, in reality, no one can help and punish us at all, we only
can enlighten ourselves. With right view and right thought, we can help us by
recognizing, transforming, and contemplating our thoughts, speeches, and
actions that are right, wrong, good, bad, etc., are created by our own bodies
and minds.
Thực vậy, khi phạm
lỗi lầm, mình phải biết cách sám hối thân và tâm chúng ta. Là con người tỉnh thức,
mình biết rằng không ai mà không có lỗi lầm. Nếu người phạm lỗi lầm vô tình hay
cố ý, khi phạm lỗi lầm, họ thường mặc kệ không biết sửa đổi lỗi lầm của họ.
Indeed, when
committing faults, we
must know how to show repentance for our bodies and minds. As people awakening,
we know that no one is
without faults. If people commit faults accidentally or intentionally, when committing fauts, they often
do not pay any attention to correcting their faults.
Nhưng, vì là hành giả tu, học, hiểu, và hành trì Phật
pháp, khi phạm lỗi lầm, mình có thể nhận diện và chuyển hóa chúng bằng cách ý
thức rằng các việc lỗi lầm do mình tạo tác có thể đem khổ đau cho mình và người
khác. Như vậy, nhận diện và chuyển hóa thân tâm, làm thiện và bất thiện đều do
chính mình tạo tác không sửa đổi và thay thể bởi một lời cầu nguyện, một đấng
thần linh, hay một vật nào khác.
But, for practitioners
cultivating, learning, understanding, and practicing the Buddhadharma, when committing faults, we can recognize and
transform them by being aware that the faults created by us can bring suffering to us and to others. Thus, recognizing and transforming our bodies and minds, doing
good and bad created by ourselves is not corrected
and replaced by a prayer, a god, or anything else.
Theo quan điểm của
các tôn giáo khác, khi người nào đó làm điều thiện hay bất thiện, vị ấy thường
nghĩ rằng có một vị thần linh ban phước và giáng họa. Theo quan điểm của
Bà-la-môn giáo (Brahmanism), khi phạm lỗi lầm,
vị ấy xuống sông Hằng (Ganga river) tắm
và uống nước thì hết tội, và dần dần sẽ trở thành bậc thánh. Nếu họ nghĩ và làm như vậy,
thì tôm, cua, cá, mực và các loài thủy tộc khác ở dưới nước suốt ngày suốt đêm, chắc chúng sẽ phải thành
thánh lâu rồi.
According to the viewpoint of other religions, when someone
does good or bad, he or she usually thinks that there is a god dispensing
blessings and causing misfortunes. According to the standpoint
of Brahmanism, when committing faults,
he or she who goes down to the Gangas River to
bathe and to drink its water erases them, and will gradually become a saint. If
they think and act like this, then shrimps, crabs, fish, cuttlefish and other aquatic
animals spend the whole day and night in the river, they must have been saints
for a long time.
Điều đó không thể
xảy ra và không phù hợp với quan điểm của Phật giáo. Chúng ta biết vì tội không
bao giờ có hình tướng, nên ta không thể rửa và tẩy tội bằng nước, mà phải thanh
lọc tội bằng tâm tu tập của mình. Tâm làm chủ, tâm tạo tác, tâm vẻ ra các cảnh
giới của Phật, Bồ-tát, trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh. Do vậy, khi
biết mình có tội, mình phải dùng tâm thanh tịnh để sám hối, như vậy, thì
tội của mình dần dần mới được thanh lọc.
It cannot happen and is not suitable from the viewpoint of
Buddhism. We know that
because sin has never had a visible sign or a physical being, we cannot
wash and cleanse the sin by water, but we purify the sin by our cultivated
hearts. Mind makes master, it creates, it draws realms of Buddhas,
Bodhisattvas, gods, human
beings, hells, hungry ghosts, and animals. Therefore, when knowing we have sins, we must utilize our purified
minds to show repentance, thus our sins can gradually get cleansed
and purified.
"Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
tâm được tịnh rồi tội liền tiêu,
tội tiêu tâm tịnh thảy đều không,
"Sins which arise from mind also need the mind to
show repentance,
When the mind has been already purified, sins immediately dispel,
The dispelled sins and the
purified mind get empty
It is called the truthfulness of showing repentance."[38]
Hơn nữa, khi có
lỗi lầm, nếu mình chỉ quan tâm tới việc cầu nguyện suông thôi,
thì lỗi lầm không bao giờ được chuyển hóa. Muốn lỗi lầm được chuyển hóa,
mình phải có phương pháp thực tập cụ thể hoặc bằng thân hoặc bằng tâm một cách chánh
niệm và tỉnh giác giữa mình với mình, và mình với các bạn đồng tu.
Moreover,
when having faults, if we are only concerned
about saying empty prayers, then faults have never been transformed. Wanting them to
be transformed, we must have the methods of pragmatic practice either by body
or by mind mindfully and awakeningly between us and us, between us and fellow
practitioners.
Trong trường hợp này, đạo Phật nêu ra ví dụ cụ thể:
"Một giọt dầu nổi trên mặt nước, bạn ra sức cầu nguyện và mong muốn giọt
dầu đó chìm xuống đáy nước, thì nó không bao giờ chìm.
In this case, Buddhism brings up specific examples: "A
drop of oil floats on the surface of water, you try your best to say prayers
and wish that oil drop to sink into the bottom of the water, it has never been
sunk.
Ngược lại, một hòn sỏi thả xuống đáy nước, bạn ra sức cầu nguyện và mong muốn hòn
sỏi đó nổi lên mặt nước, thì nó không bao giờ nổi cả. Tất
cả các việc cầu nguyện của bạn sẽ không có kết quả lợi ích như bạn mong muốn.
Trái lại, đôi lúc chúng sẽ làm cho bạn mù quáng và thiếu sáng suốt."
Conversely, gravel drops down to the bottom of the water,
you make your best efforts to say prayers and wish that gravel to float on the surface of the
water, it has never floated. All actions of saying prayers of yours will not have
the results of benefit as you wish. On the contrary,
sometimes they will make you blind and lack lucidity."
Nếu muốn giọt dầu
chìm xuống nước, bạn phải dùng trí bằng cách bỏ nó vào trong chai, và sau đó dìm
nó xuống nước. Nếu muốn hòn sỏi ra khỏi mặt nước, bạn phải thọc tay xuống nước hay
lặn xuống đáy nước, và nhặt nó lên. Trong ngữ cảnh này, cả dầu và
hòn sỏi đều dụ cho các lỗi lầm và nghiệp xấu của bạn.
If wanting
the oil drop to be sunk into the water, you must utilize your wisdom by putting
it into a bottle, and then press it down to water. If wanting the gravel to be come out of the surface of the
water, you must put your hand down to water or dive down to the bottom of water, and
pick it up. In this case, both the oil and gravel symbolize your faults and bad deeds.
Với sự thực tập
chánh kiến và chánh tư duy, khi các lỗi lầm và nghiệp xấu của bạn được nhận diện, thanh lọc, và chuyển
hóa thành nghiệp tốt, thì bạn phải sám hối bằng chính thân và tâm của bạn, ngoài bạn ra không
ai hoặc không có cái gì có thể thay thế, kể cả các lời cầu nguyện.
With the practice of right view and right thought, when your
faults and bad deeds are recognized, purified, and transformed into good deeds,
you must show repentance by your own body and mind, besides you, nobody or
nothing can replace, even prayers.
Do vậy, đạo Phật
chỉ chấp nhận rằng việc thiện, việc ác, nhận diện, sám hối, và sửa đổi lỗi lầm
là do chính hành giả tu tập chuyển hóa không do một cái gì khác ngoài ta.
Therefore,
Buddhism only accepts that good, bad, recognizing, showing repentance, and
correcting faults which are transformed by practitioners of cultivation are not
transformed by anything else besides us.
Để thanh lọc và
chuyển hóa thân và tâm, đạo Phật đề cập nhiều cách sám hối. Trong bài viết này,
có ba cách tự mình sám hối. Với chánh niệm, chánh tín, chánh kiến, và chánh tư
duy, chúng ta có thể thực tập từng bước như sau:
To purify and to transform our bodies and minds, Buddhism
mentions many ways of showing repentance. In this writing, there are three ways
of showing repentance ourselves. With right mindfulness, right
confidence, right view, and right thought, we can practice step by step as
follows:
1. Khi có lỗi lầm, mình phải
nhận diện và nỗ lực sám hối bằng cách phát nguyện bày tỏ tấm lòng thành thật với đức Phật tự tâm của mình rằng
mình quyết tâm từ bỏ, sửa đổi, và chuyển hóa.
1. When having faults, one must recognize and
try one's best to show repentance by vowing to express one's true heart to the Buddha in one's inner heart that
one is determined to give up, correct, and to transform them.
2. Khi có lỗi lầm, mình phải
nhận diện và thành tâm sám hối bằng cách phát nguyện nói ra với người bạn đồng tu của mình rằng tôi
quyết tâm không lập lại lỗi lầm xưa.
2. When having faults, one must recognize and
sincerely show repentance by vowing to say out to one's co-cultivated friends that one is determined not to repeat
old faults.
3. Khi có lỗi lầm, mình phải
nhận diện và hết lòng sám hối bằng cách phát nguyện thưa với Đại Chúng đồng tu rằng con quyết tâm làm mới thân tâm.
3. When having faults, one must recognize and
whole-heartedly show repentance by vowing to speak out to the Great Assembly of one's co-cultivation
that one is determined to renew one's
body and mind.
Ba
cách sám hối trên đây thường
chỉ cho những người có tinh thần tự giác. Tuy nhiên, đối với những người không
có tinh thần tự giác, khi có lỗi lầm, họ thường có thái độ mặc cảm và che giấu.
The three
ways of above showing repentance usually indicate people with self-enlightened
spirit. However, toward those who have no self-enlightened spirit, when
having faults, often have attitudes of inferiority complex and concealment.
Là hành giả thực
hành Phật pháp ngon lành, khi phạm một điều gì lỗi lầm và sai trái, mình
nên có tinh thần tự giác và ý thức quay về nhận diện và quán chiếu ý nghĩ, lời nói, và việc làm của mình
một cách chánh niệm phù hợp với lời Phật dạy và phù hợp với đời sống
đạo đức của nhân sinh.
As
practitioners practicing the Buddhadharma
well, when committing a fault and wrong thing, one should have
self-enlightened spirit and be aware of turning back to recognize and to contemplate
one's thoughts, speeches, and actions mindfully in accordance with the Buddha's
teachings and with human ethical life.
Trên đây, những điều lỗi lầm đề cập do
mình gây ra có thể là lấy mạng sống của chúng sinh, trộm cắp, tà dâm, nối dối,
uống các chất say, sử dụng các chất ma túy, v.v... Nếu một trong
những điều bất thiện do chính mình gây ra, thì cũng chính mình có thể nhận
chịu các quả báo xấu ác khác nhau tùy theo mức độ tạo tác của mình.
The above
mentioned faults caused by oneself can be taking living beings' lives,
stealing, sexual misconduct, telling lies, drinking alcoholic beverages,
utilizing drugs, etc. If one of these non-good things is caused by oneself,
oneself also can receive different retributions depending on levels of one's creation.
Theo quan điểm của
đạo Phật, nếu những điều bất thiện do mình gây ra thì cũng do chính mình thanh
lọc thân tâm bằng cách nhận diện, sám hối, sửa đổi, và chuyển hóa chúng thành
những điều thiện, như nuôi dưỡng tâm từ bi đối với chúng sinh; phát khởi
tâm bố thí;
According to
the viewpoint of
Buddhism, if good things are caused by one, oneself must also purify one's body
and mind by recognizing, showing repentance, correcting, and transforming them
into good things, such
as nurturing the heart of loving kindness and compassion toward living
things and living beings;
developing the heart of alms-giving;
xây dựng hạnh phúc gia đình, vợ chồng, và con cái; giữ vững niềm
tin, chân thật, và uy tín cho tự thân và cho đoàn thể; nuôi dưỡng
trí tuệ bằng cách biết thương mình và thương người; và ý thức rằng việc sử dụng các chất ma túy, các chất say, cờ bạc, hút
thuốc, chơi game, và xem phim ảnh bạo động và đồi trụy sẽ tưới tẩm các chất độc tố
và làm hại mình và hại người.
building
happiness for family, spouse, and children; holding
confidence, truth, and prestige for oneself and for the community; nurturing
wisdom by knowing to love oneself and other people; and being aware that the use of drugs, intoxicants,
gambling, smoking, playing violent games, watching violent
and debauched films and pictures will nourish toxins and do harm to one and to others.
Qua Kinh Pháp Cú,
Kệ số 165 ghi rằng:
"Tự mình làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh,
Thanh tịnh không thanh tịnh,
Đều do tự chính mình.
Through Dhammapada, Verse
No. 165 states:
"By oneself is evil done,
By oneself defiled,
By oneself it’s left undone,
by self alone one purified.
Purity, impurity on oneself depend.
No one can purify another."[40]
By oneself defiled,
By oneself it’s left undone,
by self alone one purified.
Purity, impurity on oneself depend.
No one can purify another."[40]
Thực vậy, việc thiện
và bất thiện đều do chính mình tạo tác, ngoài ta ra, không ai có thể thay thế. Việc
thiện chúng ta tiếp tục duy trì và phát triển; và việc bất thiện chúng ta ý thức
dừng lại, buông bỏ, và không làm. Hiểu và thực tập được như vậy, chúng ta có thể
áp dụng và thực tập Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để
đem lại những hoa trái an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay
trong cuộc đời này.
Indeed, good
and bad are created by oneself, besides one, nobody can replace oneself. Good we
continue upholding and developing; bad we are aware to stop, let go of, and not
to do. Understanding
and practicing like this, we can apply and practice the Buddhadharma in our daily lives to bring the flowers and
fruits of peaceful joy and happiness to ourselves and to others right in this
life.
"Trong lộ
trình giác ngộ, các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy tự mình là ngọn
đèn trí tuệ cho chính mình, hãy tự mình xây dựng hòn đảo cho chính mình; sự chiến
thắng vĩ đại nhất là sự chiến thắng của tự thân.
"On the route of enlightenment, you yourselves light up a
torch to go, yourselves are lamps of wisdom for yourselves, yourselves build peaceful
islands for yourselves; the greatest triumph is that of yourselves.
"Dầu tại bãi chiến trường
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng."[41]
Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn,
Thật chiến thắng tối thượng."[41]
"Though thousand times a
thousand
in battle one may conquer,
yet should one conquer just oneself
one is the greatest conqueror."[42]
in battle one may conquer,
yet should one conquer just oneself
one is the greatest conqueror."[42]
Trong đại dương lời luân hồi, các con hãy tự mình lội
vào bờ giải thoát, hãy tự mình nương tựa hải đảo an lạc cho chính
mình, hãy tự mình cố gắng tinh tấn lên, Đức Như Lai chỉ
là bậc đạo Sư trên nguyên tắc."[43]
In great ocean of the cycle of births and rebirths, you yourselves
swim into the shore of deliverance, you yourselves take refuge in islands of peaceful joy for yourselves, you yourselves
try to make up your best efforts, Lord Tathagatha is the
spiritual Master on principles."[44]
"Hãy nương
tựa chính mình,
Chứ nương tựa ai khác?
Người khéo điều phục mình,
Ðạt chỗ tựa khó đạt."[45]
Chứ nương tựa ai khác?
Người khéo điều phục mình,
Ðạt chỗ tựa khó đạt."[45]
"Oneself is refuge of oneself,
who else indeed could refuge be?
Oneself that skilfully
who else indeed could refuge be?
Oneself that skilfully
Qua những gì thảo luận trên đây, chữ "mình" được đề cập trong bài pháp
này bao gồm cả thân và tâm. Khi thân và tâm được nhận diện và chuyển hóa một
cách chánh niệm và tỉnh thức, vững chãi và thảnh thơi, thì hành giả chắc chắn hướng tới giác ngộ và giải thoát trong từng
sát na ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.
Through the above discussed things, the word
"oneself" mentioned in this Dharma
writing comprises both body and mind. When the body and mind are recognized
and transformed mindfully and awakeningly, steadily and relaxedly, the
practitioner certainly leads them to enlightenment and deliverance in every
moment right now and right here in the present life.
Chủ đề chính của bài viết này, đề cập
thân và tâm qua nhiều khía cạnh khác nhau, nhằm nhắc nhở chúng ta biết rằng đời
sống là vô thường, sinh, và diệt trong từng sát na, trong từng hơi thở. Do vậy,
chúng ta nên tận dụng phần còn lại của đời mình để nỗ lực tu tập, nhận diện, sửa
đổi lỗi lầm, và chuyển hóa thân tâm tốt đẹp.
The main topic of this writing, which mentions the body and
mind via many different aspects, is to remind us to know that life is
impermanence, birth, and death in every moment, in every breath. Therefore, we
should make use of the rest of our lives to make our best efforts to cultivate,
recognize, correct faults, and to transform the bodies and minds well and
beautifully.
Chúng ta ý thức rằng
càng áp dụng
và thực hành Phật pháp vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, thì
chúng ta càng gặt hái được những hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho tự
thân, cho tha
nhân, cho gia đình, cho học đường, và cho xã hội. Hiểu và thực tập được như vậy, thì chúng ta là
những món quà quý giá nhất để hiến tặng cho số đông trên khắp hành tinh này.
We are aware
that the more we apply and practice the Buddhadharma
in our daily lives, the more we reap the flowers and fruits of
pragmatic peacefulness and happiness for ourselves, for others, families, schools,
and for society. Understanding and practice like this, we are the most valuable
gifts to
dedicate them to the many all over this planet.
Nhân mùa Vesak năm nay, kính chúc Quý
Vị thân tâm thường an lạc, an trú, và thấm nhuần giáo pháp của Đức Thế Tôn.
On occasion of the Vesak Season of this year,
may you be well and happy, dwell in, and instill the Dharma of the
World-Honored One.
By
Ven. Thích Trừng Sỹ
[1] Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-811_5-50_6-1_17-56_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Or xem Assalayana Sutta No. 93 in Majjhima Nikāya.
[2] Xem
III. Thức (viññana), http://daitangkinhvietnam.org/nghien-cuu-phat-hoc/phat-hoc-tong-quat/665-thp-nh-nhan-duyen.html
[3] Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-811_5-50_6-1_17-56_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Or xem Assalayana Sutta No. 93 in Majjhima Nikāya.
[4] Xem
III. Thức (viññana), http://daitangkinhvietnam.org/nghien-cuu-phat-hoc/phat-hoc-tong-quat/665-thp-nh-nhan-duyen.html
[7] Xem
Anguttara
Nikaya III. 71 http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budtch/budteach06.htm#_ednref17 → Anattalakkhana
Sutta – Kinh Vô Ngã tướng. Or xem Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66.
[8] See Xem
Anguttara
Nikaya III. 71 http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budtch/budteach06.htm#_ednref17 → Anattalakkhana
Sutta – Kinh Vô Ngã tướng. Or xem Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66.
http://www.youtube.com/watch?v=PdeVCWo5Bis
[10]
See Anattalakkhana Sutta /
http://www.youtube.com/watch?v=PdeVCWo5Bis
[12]
See Dhammapada, Chapter 1, twin Verses
[16]
Xem http://langmai.org/tang-kinh-cac/tai-lieu/doan-que-kieu
in Vietnamese
Xem Thích Nhất Hạnh, như trên, trang 213-4.
[20]
http://www.youtube.com/watch?v=NJOHzrftR8g
in Vietnamese
[24]
Xem Dhammapada, Verses No. 127
& 128. Xem http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/dhp/dhp.09.budd.html
[26]
See Dhammapada, Verse 121. See
http://www.buddhanet.net/dhammapada/d_evil.htm
[28]
See Dhammapada, Verse 117. See
http://www.buddhanet.net/dhammapada/d_evil.htm
[30]
The Elder.
[32]
See Dhammapada, Verse 122. See
http://www.buddhanet.net/dhammapada/d_evil.htm
[34]
See Dhammapada, Verse 118. See
http://www.buddhanet.net/dhammapada/d_evil.htm
[36]
The Elder.
[42]
See Dhammapada, Verse No. 103.
See http://www.buddhanet.net/dhammapada/d_thous.htm
[43] Xem Thích Trừng Sỹ. Con Đường Giáo Dục Phật Giáo. Nhà Xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội, năm 2009,
trang 138.
Xem D. II.
99-101; LDB. II. 245.
[46]
See Dhammapada, Verse N0. 160.
Xem http://www.buddhanet.net/dhammapada/d_self.htm