Xuân Hạnh Phúc
Chúng ta đều biết một năm có mười hai tháng, một tháng có
bốn tuần, một tuần có bảy ngày đêm, một ngày đêm có hai mươi bốn giờ đồng hồ, một
giờ có sáu mươi phút v.v… luôn trôi qua trong từng sát na của cuộc sống hằng
ngày của chúng ta. Mặc dầu thời gian mãi trôi qua trôi qua, nhưng Xuân Hạnh
Phúc thì luôn hằng hữu trong ta và trong bạn, trong gia đình và trong Tự Viện,
trong khắp mọi nơi và mọi chốn.
Dựa vào tựa đề của bài viết này, khi bắt gặp từ “Hạnh Phúc,” chúng ta có thể tìm hiểu nó qua nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, đặc biệt qua những lời Kinh, tiếng kệ, xuyên qua những tư tưởng và ý nghĩa Phật pháp trong bài Kệ của Kinh Pháp Cú số 194 như sau:
The Happy Spring
We all know that a year with twelve months, a month with four
weeks, a week with seven days and nights, a day and night with twenty-four
hours, an hour with sixty minutes, etc., always elapses in every moment of our
daily lives. Although time has constantly been elapsing, the Happy Spring is eternally
present in you and in me, in families and in Dharma Centers, in all places, and
everywhere.
Xuân Hạnh
Phúc, được gọi là Xuân Di Lặc hay Xuân an lạc, có mặt đích thực nơi chúng ta. Hễ
khi nào chúng ta có ý thức làm chủ được hơi thở, lời nói, ý nghĩ và việc làm của
chúng ta một cách chánh niệm và tỉnh giác ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống
hiện tại.
The Happy
Spring, called as the Spring of Maitreya
Buddha or the Peaceful Spring, is authentically present in us. Whenever we
are aware to keep control of our breaths, words, thoughts, and actions
mindfully and consciously right here and right now in the present life.
Dựa vào tựa đề của bài viết này, khi bắt gặp từ “Hạnh Phúc,” chúng ta có thể tìm hiểu nó qua nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, đặc biệt qua những lời Kinh, tiếng kệ, xuyên qua những tư tưởng và ý nghĩa Phật pháp trong bài Kệ của Kinh Pháp Cú số 194 như sau:
Relying on
the title of this writing, when encountering the word “Happiness,” we can find
out it through varied aspects and angles, especially through Sutras, verses, thoughts, and the meanings of the
Buddhadharma in the Dhammapada, Verse 194 as follows:
“Hạnh phúc thay Đức Phật ra đời,
Hạnh phúc thay giáo Pháp cao minh,
Hạnh phúc thay Tăng đoàn an lạc,
Hạnh phúc thay Bốn Chúng đồng tu.”[1]
“Happy is the birth of the Buddha,
Happy is the noble Dhamma,
Happy is the harmonious Sangha,
Như quý vị
biết hạnh phúc được cảm nhận qua nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, nhưng
chung quy lại, hạnh phúc được cảm nhận tốt nhứt là hạnh phúc được xuất phát từ
“thân an lạc” và “tâm giải thoát” của mỗi chúng ta. Đó là
món quà quý giá nhất mà chúng ta có thể hiến tặng nó cho chúng ta và cho những
người thương của chúng ta nhân dịp Xuân mới.
Căn cứ bài kệ Pháp Cú trên, chúng ta phát hiện từ “hạnh phúc”có mặt trong các lời dạy của Đức Phật, chúng ta lần lượt
tìm hiểu các ý nghĩa của nó dưới đây.
As you
know, happiness gets felt via many various aspects and angles, but happiness
which is felt best is happiness derived from “the body of peacefulness”and “mind
of liberation” of each one of us. That is the most precious gift that we
can offer it to ourselves and to our loved ones on occasion of the new Spring. Based
on the above verse of Dhammapada, we
discover the word “happiness” to be
present in the Buddha’s teachings, we in turn learn more about its meanings
below.
Trong tiếng
Phạn hoặc tiếng Pāli, hạnh phúc có từ gốc là “Sukha.”[3]
Theo Monier-Williams (1964), “Sukha”
có hai từ riêng biệt: “Su” và “Kha.” “Su” có nghĩa là “tốt” và
“Kha” có nghĩa là “trục xe.”“Sukha” có nghĩa đen là “trục
xe tốt.” Ví dụ, xe hơi có trục xe tốt thì xe mới có thể chạy nhanh, chạy xa,
và chạy lâu bền được. Dĩ nhiên, nó phải còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nữa
như bánh xe, xăng, nhớt, v.vv… Cũng như thế, khi có “Chân Hạnh Phúc,” chúng ta có thể tu tập và chuyển hóa các hạt giống
bất thiện thành các hạt giống thiện. Chúng ta có thể thực tập rải các tâm từ,
bi hỷ, xả đến với mọi người và mọi loài để giúp đời them vui và bớt khổ.
In Sanskrit or Pāli, happiness with its root is “Sukha.”[4]
According to Monier-Williams (1964), “Sukha”
has two separate words: “Su” and “Kha.” “Su” means “good” and “Kha” means “axle.” “Sukha” literally means
“good axle.” For example, a vehicle with
a good axle can run fast, far, and durably. Of course, it must still depend
additionally on other factors such as wheels, gas, engine oil, etc. Likewise, when
having “True Happiness,” we can practice
the Dharma and transform unwholesome seeds into wholesome seeds. We can spread
the cultivated hearts of loving-kindness, compassion, joy, and inclusiveness to
all living things and living beings to help add happiness and alleviate
suffering for life.
Khi thực hiện
những việc ấy tốt đẹp, chúng ta phải có những phương pháp thực tập cụ thể như lời
nói ái ngữ, lắng nghe, lạy Phật, niệm Phật, hành thiền trong chánh niệm và tỉnh
giác mỗi ngày để nạp lại bình điện tâm linh của chúng ta. Từ đây, chúng ta có
thể thưởng thức được hương vị an lạc của việc thực tập, chúng ta có thể đem lại
những hoa trái an lạc và hạnh phúc tới cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.
When performing
so well, we have to have the methods of specific practice such as loving
speech, deep listening, prostration of the Buddha, recitation of the Buddha’s
names, Meditation practice in mindfulness and awareness daily to recharge our
spiritual battery. From this, we can enjoy the peaceful taste of practice, we
can bring the flowers and fruits of peaceful joy and happiness to the many
right in the present life.
Chúng ta biết hạnh phúc, mặc trái của nó là “bất hạnh” và “khổ đau” (Dukkha). Tu tập
là một quá trình để chúng ta nhận diện và chuyển hóa bất hạnh và khổ đau thành
an vui và hạnh phúc. Trong thuật ngữ Phật học, nghĩa đích thực của “Sukha” là “Chân Hạnh Phúc.” Trong “Kinh
Chân Hạnh Phúc,” phần V của Kinh Tập,
thuộc Kinh Tiểu Bộ, đề cập tới các
giá trị của “Kinh Chân hạnh Phúc” mà
chúng ta có thể học, hiểu, áp dụng, và
thưởng thức được hương vị an lạc của Phật pháp từ đầu mùa Xuân của Năm Mới cho
tới cuối mùa Xuân của cuộc đời. Với tâm hân hoan và thoải mái, xin mời quý vị cùng
nhau đọc và chiêm nghiệm bài “Kinh Chân Hạnh Phúc” này cho vui.
We know happiness;
its revere is “unhappiness” and “suffering.” Cultivation is a process so that
we can recognize and transform unhappiness and suffering into peaceful joy and
happiness. In Buddhist terminology, the authentic meanings of “Sukha” is “True Happiness.” In the “Sutta
of True Happiness,” (Mangala Sutta) the part V of Sutta-Nipāta, belonging to Khuddaka Nikāya, referring to the values of “True Happiness Sutta” we can learn, understand, apply, and enjoy
its peaceful taste of the Buddhadharma from the early Spring of the New Year up
to the end of Spring of life. With our joyful and relaxed minds, we would like
to invite you all to read and contemplate the “Sutta of True Happiness” together happily.
“Như vầy tôi nghe. Một thời đức
Thế Tôn ở tại Savatthi, trong rừng Jeta, vườn Anathapindika. Có một thiên nhân,
khi đêm gần tàn, với dung sắc thù thắng chiếu khắp rừng Jeta, đi đến Thế Tôn.
Sau khi đến, kính lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên, thiên nhân ấy nói lên bài kệ
trước Ðức Thế Tôn như sau:
“Thus have I heard.
Once the World-Honoured One was dwelling in Savatthi at Jeta’s Grove,
Anathapindika’s garden. When the night was nearly ended, there
was a certain deity with his surpassing radiance who
illuminated the
entirety of Jeta’s Grove, approached and bowed down to the World-Honoured One.
After having paid homage to the World-Honoured One, the deity stood at one side
and addressed the World-Honoured One in verse as follows:
''Chư thiên và loài người,
Suy nghĩ về hạnh phúc,
Ước mong được hạnh phúc,
Chân hạnh phúc là gì?
Suy nghĩ về hạnh phúc,
Ước mong được hạnh phúc,
Chân hạnh phúc là gì?
Xin Thế Tôn chỉ dạy.
Deities and human
beings
That think about happiness,
Wish to obtain happiness
What is true
happiness?
Invite the World-Honored One to teach it.
Thế Tôn đáp kệ rằng:
Kẻ
si mê nên tránh,
Bậc hiền đức phải gần,
Cung kính người đáng kính,
Ấy là chân hạnh phúc.
Bậc hiền đức phải gần,
Cung kính người đáng kính,
Ấy là chân hạnh phúc.
He
replies with the verse:
Avoiding the foolish,
Associating with the wise,
Paying homage to those who
are worthy of homage,
This is true happiness.
Chọn
nơi lành mà ở,
Ðời trước đã tạo phúc,
Nay giữ lòng thẳng ngay,
Ấy là chân hạnh phúc.
Ðời trước đã tạo phúc,
Nay giữ lòng thẳng ngay,
Ấy là chân hạnh phúc.
Choosing a wholesome
place to reside,
Having made merits in
past life,
Keeping one’s heart
right and straight,
This is true
happiness.
Hiểu rộng và khéo tay,
Giữ tròn các giới luật,
Giữ tròn các giới luật,
Nói những lời hòa ái,
Ấy là chân hạnh phúc.
Ấy là chân hạnh phúc.
Understanding broadly
and being skillful in handicraft,
Observing the Precepts
perfectly,
Talking together with
loving speech,
This is true happiness.
Cung dưỡng cha và mẹ,
Yêu mến vợ/ chồng và con,
Không vương vấn phiền hà,
Ấy là chân hạnh phúc.
Yêu mến vợ/ chồng và con,
Không vương vấn phiền hà,
Ấy là chân hạnh phúc.
Serving mother and
father,
Cherishing spouse and
children,
Not being attached to
trouble,
This is true
happiness.
Cho và sống đúng cách,
Nên giúp đỡ bà con,
Hành động không chê trách,
Ấy là chân hạnh phúc.
Nên giúp đỡ bà con,
Hành động không chê trách,
Ấy là chân hạnh phúc.
Giving and living in integrity,
Helping one’s
relatives,
Deeds are no blameful,
This is true
happiness.
Ngăn trừ điều ác xấu,
Dứt bỏ thói rượu chè,
Chuyên cần trong Chánh Ðạo,
Ấy là chân hạnh phúc.
Dứt bỏ thói rượu chè,
Chuyên cần trong Chánh Ðạo,
Ấy là chân hạnh phúc.
Preventing evil,
Giving up intoxicants,
Being assiduous in the
right way,
This is true
happiness.
Kính nhường và khiêm tốn,
Biết đủ và nhớ ơn,
Biết đủ và nhớ ơn,
Tuỳ thời học đạo lý,
Ấy là chân hạnh phúc.
Ấy là chân hạnh phúc.
Being respectful and
humble,
Knowing contentment and
gratetitude,
Learning the Dhamma on
timely occasions,
This is true happiness.
Nhẫn nhục vâng ý lành,
Viếng thăm bậc tu hành,
Tuỳ thời bàn luận đạo,
Ấy là chân hạnh phúc.
Viếng thăm bậc tu hành,
Tuỳ thời bàn luận đạo,
Ấy là chân hạnh phúc.
Being patient and
obedient,
Visiting monks and
nuns,
Discussing the Dhamma
on timely occasions,
This is true
happiness.
Trong sạch và siêng năng,
Suốt thông các chân lý,
Thực hiện vui Niết Bàn,
Ấy là chân hạnh phúc.
Suốt thông các chân lý,
Thực hiện vui Niết Bàn,
Ấy là chân hạnh phúc.
Being pure and
diligent,
Undertanding the Noble
Truths clearly,
Carrying them out and
being happy with Nibbana
This is true
happiness.
Tiếp xúc với thế gian,
Giữ lòng không sa ngã,
Không sầu nhiễm bình an,
Ấy là chân hạnh phúc.
Giữ lòng không sa ngã,
Không sầu nhiễm bình an,
Ấy là chân hạnh phúc.
Being in touch with
the world,
Keeping one’s mind
unshaken,
Sorrowless, dustless,
and peaceful,
This is true
happiness.
Như thế mà tu hành,
Việc gì cũng thành tựu,
Ở đâu cũng an lành,
Ấy là chân hạnh phúc.”[5]
Việc gì cũng thành tựu,
Ở đâu cũng an lành,
Ấy là chân hạnh phúc.”[5]
Those who train in the aforesaid teachings like that,
Can easily achieve
anything,
Live peacefully in any place.
Qua bài “Kinh Chân
Hạnh Phúc,” chúng ta biết hạnh phúc có giá trị đích thực khi nó được cảm
nhận bằng thân an lạc và bằng tâm giải thoát. Mình có thể viết lại là “hạnh phúc về thân” và “hạnh phúc về tâm.”
Via the “Sutta of True Happiness,”
we know happiness has the authentic values when it gets
felt by our peaceful bodies and liberated minds. We can rewrite
this as “happiness about our bodies”
and “happiness about our minds.”
“Hạnh phúc về thân”có nghĩa là khi làm
thân người, chúng ta may mắn có đầy đủ hai tay, hai chân, mắt, tai, mũi, lưỡi,
v.v… Qua việc áp dụng và thực hành Phật pháp hằng ngày, chúng ta có thể thưởng
thức được pháp lạc khi chân, tay của chúng ta có đầy đủ sức khỏe để đi thiền,
ngồi thiền, và thở thiền trong chánh niệm. Mắt ta còn sáng để nhìn thấy được
người thương của mình đang hiện diện và giúp đỡ bên nhau. Tai ta còn rõ để nghe
Pháp thoại và tiếng chim hót. Mũi ta còn khỏe để thở vào và thở ra chánh niệm
và tĩnh thức. Lưỡi ta còn khỏe để nếm được hương vị của pháp lạc.
“Happiness about our bodies” means when
making human bodies, we are fortunate to have full hands, legs, eyes, ears,
nose, tongue, etc. Via applying and practicing the Buddhadharma daily, we can
enjoy the Dharma happiness when our hands and legs have enough health to walk
in meditation, sitting in meditation in mindfulness. Our eyes are still bright
to see our loved ones being present and helping each other. Our ears are still
clear to listen to the Dharma talk and hear bird singing. Our noses are still
healthy to breathe in and out mindfully and consciously. Our tongues are still
healthy to taste the flavors of Dharma happiness.
Hơn nữa, “hạnh phúc về thân”có nghĩa là chúng ta ý
thức tôn trọng mạng sống của người và của muôn vật, bảo vệ tài sản của người, sống
đời sống an vui và hạnh phúc bằng cách nói lời lợi ích, ái ngữ và dễ thương đến
với mọi người và mọi nhà. Ý thức không sử dụng các chất ma túy, rượu, bia, hút
thuốc, các việc tiêu thụ phim, ảnh, báo chí bạo động và đồi trụy. Chúng ta nên dành
nhiều thời gian để làm các việc từ thiện như phát tâm xây dựng cầu cống, đường
xá, giúp các học sinh nghèo, và những gia đình neo đơn và túng thiếu. Như vậy,
“hạnh phúc về thân” có nghĩa là chúng
ta sống và làm việc lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống hiện
tại.
Moreover, “happiness about our bodies” means we are
aware to observe living things and living beings, protect human properties,
live a life of peaceful joy and happiness by saying words of usefulness, love,
cuteness to everyone and every home. Aware not to take varied kinds of
narcotics, wine, beer, smoking, consumption of violent and depraved films,
photos, and newspapers. We should spend time doing charitable activites such as
devotion to building bridges, roads, helping poor students, and lonely and
needy families. Thus, “happiness about
our bodies” means we live and do the benefits for others and ourselves
right in the present life.
Mặc khác, xuyên
qua việc học, hiểu, ứng dụng, và nếm được Pháp hỷ và Pháp lạc vào trong đời sống
hằng ngày, “hạnh phúc về thân” không những dành cho những người có đầy đủ tay,
chân, mắt, tai, mũi, v.vv…, mà còn dành cho những người thiếu một trong những chi
phần quý giá nhất của con người. Những người thiếu may mắn ấy họ cũng có thể tiếp
cận Phật pháp từ người hướng dẫn hoặc nghe bằng tai, nói và hát bằng miệng, hoặc
cảm nhận bằng ý v.v… ấy vậy mà họ có thể nếm được pháp lạc nơi tự thân.
On the
other hand, through learning, understanding, applying, and enjoy the Dharma joy
and Dharma happiness in the daily life, “happiness
about their bodies” is not only intended for those having enough hands,
legs, eyes, ears, noses, etc., but also for those lacking one of their most precious
parts. Unfortunate people who can also approach the Buddhadharma from an
instructor whether hear it by ears, say and sing it by their mouths, or feel it
by their minds, etc., so they can enjoy the Dharma happiness from themselves.
Người hướng
dẫn Phật pháp có thể là vị xuất sĩ, cư sĩ, thầy, cô, hoặc có thể là vị thiện
nguyện, hướng dẫn hành giả tới bờ thanh lương, thơm hương, tức là tới bờ an vui
và hạnh phúc. Vị ấy có thể là một Đức Phật Di Lặc, thương yêu và hiểu biết, sống
với cái tâm hỷ, xả, sống vì người khác và sống cho người khác.
The instructor of the Buddhadharma, who can be a monastic, lay person, a
teacher, or a volunteer, instruct practitioners to go to the shore of coolness,
fragrance, that is, to that of peaceful joy and happiness. That instructor, who
can be a Maitreya Buddha, loves and understand,
lives with his/her heart of joy, inclusiveness, and lives for others.
Tiếp đến là
“hạnh phúc về tâm;” “hạnh phúc về tâm” có nghĩa là chúng ta
có đủ duyên lành học, hiểu, hành trì Phật pháp hằng ngày, và thưởng thức được
hương vị an lạc của nó. Chúng ta có thể tu tập và chuyển hóa các hạt giống không
lành mạnh nơi tâm chúng ta như hạt giống buồn, giận, tham lam, ganh tị, si
mê…và chúng ta có thể vun bồi và tưới tẩm các hạt giống tốt và lành mạnh nơi
tâm chúng ta như hạt giống từ, bi, hỷ, xả, v.v…
Next is “happiness of our minds;” “happiness of our minds” means we have
enough good conditions to learn, understand, practice the Dharma, and enjoy the
feelings of its peaceful joy. We can cultivate and transform the unwholesome seeds
of our minds, such as the seeds of sorrow, anger, greed, envy, delusion, etc.,
and we can cultivate and water the wholesome and good seeds of our minds, such as the seeds of
loving-kindness, compassion, joy, and that of equanimity, etc.
Qua những
gì được thảo luận trên đây, thân và tâm được phân chia như vậy là để giúp chúng
ta dễ hiểu. Chứ thật ra, thân và tâm của con người là một thực thể nhứt như
không thể tách rời ra được, như nước với song, như hình với bóng, chỉ một mà
thôi. Hạnh phúc của thân chính là hạnh phúc của tâm, và ngược lai, hạnh phúc của
tâm cũng chính là hạnh phúc của thân. Tu là để chúng ta đạt được an lạc và hạnh
phúc từ nơi thực tập ngon lành của thân, tâm. Thân an lạc thì tâm an vui, và
ngược lại, tâm an vui thì thân an lạc. Nếu thân và tâm không an lạc thì sức mấy
mà chúng ta có hạnh phúc.
Via what
are above discussed things, the bodies and minds are divided like this, is to
help us easily understand, but in fact, human body and mind are an only unique
entity inseparably like water and waves, like image and its shadow. Happiness
of the body is that of the mind, and vice versa, happiness of the mind is also
that of the body. Cultivation is for us to achieve peaceful joy and happiness from
our well-practiced bodies and minds. The peaceful body is the peaceful mind,
and vice versa, the peaceful mind is the peaceful body. If our bodies and minds
are unpeaceful, however hard we try, we never obtain happiness.
Là đệ tử của
Đức Phật, chúng ta thường xuyên học và áp dụng những lời dạy thiết thực của Người
vào trong đời sống hằng ngày của mình để chúng ta có thể hiến tặng mùa “Xuân Hạnh Phúc” cho tự thân và cho tha
nhân ngay trong cuộc sống hiện tại. Để diễn tả thêm những ý nghĩa của thân và
tâm, xin mời quý vị cùng nhau thương thức bài “thơ Hạnh Phúc” của một vị nữ Xuất
sĩ ca ngợi về sự may mắn được làm người hạnh phúc dưới đây cho vui.
As the
Buddha’s disciples, we frequently learn and apply his practical teachings in
our daily lives in other that we can offer the “Happy Spring” to others and ourselves right in the present life. To describe the
additional meanings of our bodies and minds, please enjoy a “Poem of Happiness”
of a Nun praising the luck for being happy people below happily.
“Đức Thế Tôn
cao cả tuyệt vời!
Từ bi thị hiện khắp muôn
nơi,
Ban cho nhân loại niềm vui
sống,
Cho con hạnh phúc được làm
người.
Lắng nghe chánh pháp vơi
sầu khổ,
Diệt tận nguồn mê trí sáng
ngời,
Hạnh phúc trong muôn ngàn
hạnh phúc,
Làm người hạnh phúc nhất
trên đời”[7]
“How wonderful the World-Honored One is!
His loving-kindness
and compassion spreading all over place,
Granting living beings
joy of life,
Giving us happiness to
make human bodies.
Listening to the
Dharma to alleviate grief and suffering,
Destroying ignorance
to let one’s mind be illuminated by wisdom,
Happiness in a myriad
of happiness,
Hơn nữa, ở
bài thi kệ Pháp Cú số 194 được đề cập ở trên, chúng ta có thể phát hiện từ “hạnh
phúc”có mặt trong toàn bài kệ. Hàng thứ nhất của câu kệ Pháp Cú này là “Hạnh phúc thay Đức Phật ra đời.” Chúng
ta biết mục đích ra đời của đức Phật là để đem lại an lạc và hạnh phúc cho chư
thiên và nhân loại. Đức Phật, Bậc tỉnh thức và giác ngộ trọn vẹn, có thể hiểu
là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và cũng có thể hiểu là Đức Phật Di Lặc trong ngữ cảnh
mùa Xuân, Tết.
Moreover, in the verse 194 of the Dhammapada mentioned above, we can find
the word “happiness” is present in
the whole of the verse. The first line of this Dhammapada verse is that “Happy
is the birth of the Buddha.” We know the purpose of the Buddha’s birth is
to bring peaceful joy and happiness to gods and living beings. The Buddha, the
Fully Awakened or Enlightened One, can be understood as the Sakyamuni Buddha and can be also understood
the Maitreya Buddha in the context of
Spring, Tết.
Trong ngữ cảnh
mùa Xuân, chúng ta có thể hiểu Đức Phật Di Lặc là một Đức Phật hoan hỷ, xuất hiện
vào ngày đầu của Năm Mới để đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người và mọi
nhà. Tu học Phật Pháp tinh chuyên, mỗi chúng ta có thể là mỗi Đức Phật Di Lặc để
hiến tặng mùa Xuân Hạnh Phúc cho nhiều người.
In the
context of the Spring, we can understand the Maitreya Buddha as the happy Buddha, who appears in the first day
of the New Year to bring peaceful joy and happiness to everyone and every
family. Practicing the Buddhadhamma
diligently, we each can be each Maitreya
Buddha to dedicate the Happy Spring to many people.
“Phật là Thầy chỉ đạo,
Bậc tỉnh thức vẹn toàn,
Tướng tốt đoan trang,
Trí và bi viên mãn."[9]
“The Buddha is the
Teacher showing the way,
The fully Awakened One,
Whose noble and respectable marks,
Hàng thứ
hai của câu kệ Pháp Cú là “Hạnh phúc thay
giáo pháp cao minh.” Giáo Pháp cao minh có nghĩa là Khổ Thánh Đế, Khổ Tập
Thánh Đế, Khổ Diệt Tập Thánh Đế, và Con đường đưa tới khổ Diệt Tập Thánh Đế.[11]
Phật pháp này có khả năng đưa chúng ta tới mùa Xuân Hạnh Phúc đích thực cho tự
thân và cho tha nhân. Nếu chúng ta áp dụng và hành trì Phật pháp chánh niệm vào
trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta có thể đem lại an vui và hạnh phúc cho
nhiều người. Chính vì thế mà Phật pháp được mệnh danh là “vượt thoát thời gian, thiết thực
hiện tại, xa lìa nhiệt não, đến để mà thấy, đến để mà nghe, đến để mà hiểu, đến
để thực hành, và đến để thưởng thức hương vị an lạc của chánh pháp.”[12]
The second
line of the Dhammapada verse is that
“Happy is the Noble Dhamma.” The
Noble Dhamma means the Noble Truth of
Suffering (Dukkha-Ariya-Sacca), the
Noble Truth of the Origin of Suffering (Dukkha-Samudaya-Ariya-Sacca),
the Noble Truth of the Cessation of Suffering (Dukkha-Nirodha-Ariya-Sacca), and the Path leading to the Noble
Truth of the Cessation of Suffering (Dukkha-Nirodha-Gāminī-Paṭipadā-Ariya-Sacca).[13]
The Dhamma has the ability to lead us
to the Spring of authentic Happiness for others and for us. If we practice and
apply the Dhamma mindfully in our
daily lives, we can bring peaceful joy and happiness to many people. Therefore,
the Buddhadhamma is called as “beyond
time, practical in the present, avoid afflictions, come and see, come and hear,
come and understand, come and practice, and come and enjoy the taste of the
Dhamma peace and joy.”[14]
Thực vậy,”Giáo Pháp cao minh” cũng có nghĩa là khi nào chúng ta áp dụng và hành trì nó một
cách siêng năng vào trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta có thể gặt hái những
hoa trái an lạc và hạnh phúc thiết thực ở hiện đời.
“Pháp là con đường sáng,
Dẫn người thoát cõi mê,
Đưa con trở về,
Sống cuộc đời tỉnh thức.”[15]
Indeed, “the Noble Dhamma” also means whenever
we apply and practice it assiduously in our daily lives, we can reap the fruits
and flowers of peaceful joy and happiness practically in the present life.
“The Dhamma which is the bright way,
Leads people to escape from the realm of delusion,
Leads one to coming back one’s spiritual homeland,
In order to live one’s life of awakening.”[16]
Hàng thứ thứ ba của câu
kệ Pháp Cú này là “Hạnh phúc thay Tăng
đoàn an lạc.” Tăng đoàn là những vị đệ tử của Đức Thế Tôn, những vị hành giả
tâm linh, nguyện sống cuộc đời an lạc và tỉnh thức, nguyện theo con đường hòa
bình, giác ngộ, và giải thoát của Đức Thế Tôn, và nguyện chăm sóc và nuôi dưỡng
tình huynh đệ và tình thầy. “Tăng Đoàn an
lạc” gồm có những vị xuất Sĩ và Cư sĩ nguyện học, hiểu, thực hành, và ứng dụng
Phật pháp hằng ngày để đem lại lợi ích cho nhiều người.
“Tăng là Đoàn thể đẹp,
Cùng đi trên đường vui,
Tu tập giải thóat,
Làm an lạc cuộc đời.”[17]
The third
line of this Dhammapada verse is that
“Happy
is the harmonious Sangha.” The Sangha
are the World-Honored One’s disciples, spiritual Practitioners, who vow to
lead their lifes of peaceful joy and awakening, vow to follow the path of his peace,
enlightenment, and liberation, and vow to look after and nourish sisterhood, brotherhood,
teachers, and students. “The harmonious
Sangha” consist of monastic and lay people vowing to learn, understand,
practice, and apply the Buddhadharma into their daily lives to bring the
benefits to many people.
“The Sangha that are the
beautiful Community,
Travel together on the
joyful path,
Cultivate and be freed
from defilements
To make life be joyful and peaceful.”[18]
Hàng thứ tư
của câu kệ Pháp Cú này là “Hạnh phúc thay
Tứ chúng đồng tu.”Tứ chúng gồm có chúng xuất sĩ nam, chúng xuất sĩ nữ,
chúng cư sĩ nam và chúng cư sĩ nữ. Cả Bốn Chúng này đều là đệ tử của Đức Thế
Tôn, cùng nhau tu học Phật pháp để làm đẹp cho cuộc đời.
“Đệ tử nương nhờ Tam Bảo,
Biết Tam Bảo của tự tâm,
Nguyện tu học tinh cần,
Làm sáng lòng ba viên ngọc quý.”[19]
The fourth
line of this Dhammapada verse is that
“Happy
is the fourfold Community in peace and concord together.” The fourfold
Community consist of Buddhist Monks, Nuns, lay men, and lay women. All of them are
the World-Honoured One’s monastic and lay disciples practicing the Buddhadharma
together to beautify life.
“Disciple taking refuge in the Three Jewels,
Knows the Three Jewels of one’s own mind,
Vows to practice the
Buddha’s teachings diligently
Như vậy,
chúng ta thấy “Xuân hạnh phúc” cũng
có nghĩa là “Xuân Truyền Đăng.” “Truyền đăng” có nghĩa là chúng ta cùng
nhau truyền trao ánh sáng của tình thương, hạnh phúc, và ánh sáng của an lạc tới
muôn loài. Chúng ta cùng nhau thắp sáng lên ngọn đuốc của chánh Pháp, thắp sáng
lên ngọn đuốc của tình thương và hòa bình. Tất cả chúng ta là những người mang ánh
sáng chánh pháp cho số đông ngay trong cuộc sống hiện. Khi hiểu và thực hành được
như vậy, thì chúng ta có thể góp phần đem lại an vui và hạnh phúc cho nhiều người.
Để tỏ lòng quý kính Tam Bảo, xin mời quý vị thưởng thức đọc bài thơ Xuân Hạnh
Phúc dưới đây cho vui.
Thus, we
see the “the Happy Spring” also means
the “Spring of the Lamp Transmission.”
“The Lamp Transmission” means we
together transmit the light of love, happiness, and that of peaceful joy to all
living things and living beings. We together light up the lamp of the Dhamma, light up the lamp of compassion
and peace. All of us are bearers of the Dharma lights for the many right in the
present life. When understanding and practicing so, we can contribute to
bringing peace, joy, and happiness to many people. To express our hearts
to esteem and respect the Three Jewels, please enjoy reading the poem of the
Happy Spring below happily.
“Xuân Hạnh
Phúc thanh thanh trong xanh,
Gió đưa làn mây trôi nhanh
nhanh,
Từng đàn chim đua nhau quây
quanh,
Mừng Xuân sang đón vui lễ hội.
Quỳ thành tâm nơi đây trang nghiêm,
Lòng cung kính hướng về Tam Bảo
Nguyện cầu cho Tăng thân thanh cao,
Sống hợp hòa, xiển dương đạo pháp.
“The Happy
Spring is gentle clear green,
The wind brings the drifting clouds quickly
Each flock of birds gathers together
The wind brings the drifting clouds quickly
Each flock of birds gathers together
Celebrating the coming Spring welcomes people to the festival.
Kneeling sincerely down in this solemn place,
One’s respectful heart is forwarded to the Three Jewels,
Praying for the noble Sangha Body,
Living in harmony to
spread the Dhamma Path.
Cầu mong cho muôn nơi an vui,
Thoát mê lầm, tầm cầu giải thoát.
Và nguyện cho gia quyến hôm nay,
Sức khỏe đầy, vui vầy Chánh Pháp.
Cùng nguyện ước cửu huyền thất tổ,
Thấm nhuần Ðạo, xa lìa nẻo ác.
Wishing for all places of peace and joy,
Escaping from ignorance to find out liberation,
And praying for families and relatives today,
The full health, the happy
reunion of the Dhamma,
Together aspiring to ancestors and parents,
Penetrating the Dharma to keep away from the evil path.
Mùa Xuân sang, vang ca vang ca,
Niềm hân hoan trong bao thiết tha,
Ðời tươi vui như tâm nở hoa,
Niềm hạnh phúc dâng trào có Bụt,
Người trao ta duyên cùng Chánh Pháp,
Tình bao la trong muôn tiếng ca.
The Spring coming resounds, resounds,
With joy of eagerness in
how dear,
Life is fresh and joyous as one’s heart blossoms,
Feelings of bliss are full of the Buddha,
Who leads us to the Dhamma,
Boundless love of all sounds of singing.
Dù mai đây, khi năm tháng qua,
Con vẫn bước trên đường của Bụt.
Tình thương Bụt mãi là bất diệt,
Bụt trong ta là nguồn nắng ấm.
Mừng Xuân sang, chúng ta hát ca,
Đón năm mới, vui chung mọi nhà.”[21]
Despite tomorrow, when years and months pass,
One still steps on the path of the Buddha,
Whose love is eternally forever,
The Buddha in one’s heart is the source of warm sunshine.
Celebration of the
Spring coming, we sing the Dharma songs,
Welcoming the New Year, we are happy together with all
families.”[22]
Trước thềm năm mới, thành tâm hướng về Cha,
Mẹ, Thầy, Tổ, Đức Phật, Giáo Pháp vi diệu, và Tăng Đoàn an lạc, chúng con kính chúc toàn thể chư vị xuất Sĩ, cư Sĩ, quý đồng
hương Phật tử vui khỏe trong Pháp học, Pháp hiểu, Pháp hành, Pháp Hỷ, Pháp hộ,
và Pháp hoằng.
“Mừng Xuân hạnh phúc hiện
tiền,
Người người no ấm nhà nhà
an vui.”[23]
Nam
Mô Đức Phật Di Lặc, Hoan Hỷ, An vui, và Hạnh Phúc.
On the threshold of the New Year, turning our
sincere minds to our Parents, Tearchers, Patriarchs, the Buddha, his Wonderful
Dharma, and harmonious Sangha, we would like to wish Monastics, lay Buddhists,
and everyone happiness and health in the Dharma learning, Dharma understanding,
Dharma practice, Dharma joy, Dharma protection, and Dharma propagation.
Celebration of the Happy Spring in the present,
Namo
the Maitreya Buddha with joy, peace, and happiness.
By Thích Trừng Sỹ
[1] Kệ Pháp Cú số 194.
[2] Dhammapada, Verse No. 194.
[3] http://en.wikipedia.org/wiki/Sukha
[4] http://en.wikipedia.org/wiki/Sukha
[5]
HT. Thích Thiện Châu dịch. Xem
http://www.thuvienhoasen.org/lienhoa501-04.htm
[7]
Bài thơ Hạnh Phúc của nữ xuất sĩ Thích Nữ Tắc Phú.
[9]
Thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
[11]
Xem S. V. 437-8; CDB. V. 1857-8.
[12]
See The Path of Purification (Visuddhimagga). Bhikkhu Ñāṇamoli
translated Pāli into English. Sri Lanka:
Buddhist
Publication Society, 5th Edition 1991, Reprinted 1999, Chapter VII,
68-88: 209-215.
[14] See
The Path of Purification (Visuddhimagga). Bhikkhu Ñāṇamoli
translated Pāli into English. Sri Lanka: Buddhist Publication Society, 5th
Edition 1991, Reprinted 1999, Chapter VII, 68-88: 209-215.
[15] Thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
[17]
Như trên.
[19]
Zen Master Thích Nhất Hạnh’s poem.
[21]
Vu Lan 2007, thơ “Kính dâng Mẹ”
của tác giả Nguyễn Nguyệt. Trong bài thơ này, người viết có đổi một vài từ cho
phù hợp với ngữ cảnh Mùa Xuân, kính mong tác giả hoan hỷ và thông cảm. Mến chúc
tác giả vui Xuân.
[22] Ullambana
2007, the Poem of “Respectfully Offering Mother,” of the
author Nguyễn Nguyệt. In this poem, the writer has changed some words in conformity
with the context of the Spring, and respectfully expects the author of this
poem to understand and sympathize with him, who lovingly wishes the author to
be happy with the Spring.
[23]
Người viết, tập làm thơ cho dzui cho dzui, hòa với đời vui cùng chánh
Pháp.
[24] The writer, practicing making a poem for
joy, harmonizes with life to be happy together with the Dhamma.